My Profile
Đăng xuất
Tạo mới tin bài
Danh mục
Tin bài
Cập nhật
Nhập thông tin bài đăng
Thể loại
Số hiệu
Hình thức văn bản
Tác giả
Ngày đăng
Tiêu đề
Tiếng Việt
Tiếng Anh
Tiếng Nhật
Attachment Name
Attachment 1 (pdf/doc/...)
Chọn File
Attachment 2 (pdf/doc/...)
Chọn File
Attachment 3 (pdf/doc/...)
Chọn File
Attachment 4 (pdf/doc/...)
Chọn File
Hình ảnh
Chọn File
Hình ảnh
Chọn File
Mô tả ngắn
Tiếng Việt
Tiếng Anh
Tiếng Nhật
Việt Nam là cái “nôi” của cây chè. Cây chè có lịch sử lâu đời gắn với tập quán sản xuất, canh tác nông nghiệp
Nội dung
Tiếng Việt
Tiếng Anh
Tiếng Nhật
<p style="text-align:justify"> Việt Nam là cái “nôi” của cây chè. Cây chè có lịch sử lâu đời gắn với tập quán sản xuất, canh tác nông nghiệp. Theo đó, thói quen uống trà của người Việt có “bề dày lịch sử”; đây là thú vui tao nhã, nét văn hóa của người Việt, nhất là trong những ngày đón Tết cổ truyền dân tộc..</p> <table align="center" border="0" cellpadding="1" cellspacing="1" style="width:100%"> <tbody> <tr> <td><img alt="" src="https://dalat-info.gov.vn:444/uploads/20211230205713vùng ché bảo lộc.jpg" style="height:446px; width:670px" /></td> </tr> </tbody> </table> <p style="text-align:justify"><strong><em>Vài nét về chén trà đầu xuân</em></strong></p> <p style="text-align:justify">Việt Nam phát triển và đi lên từ nông nghiệp. Bên cạnh các loại cây lương thực, người Việt còn trồng các loại cây công nghiệp, cây ăn quả; trong đó, cây chè gắn bó lâu đời và bền chặt nhất.</p> <p style="text-align:justify">Trước khi trở thành hàng hóa, xuất khẩu đi các quốc gia, mỗi năm thu về hàng chục tỷ USD, người nông dân trồng chè đơn thuần để làm thức uống hàng ngày. Do đó, trà xanh giàu chất bổ có “xuất xứ”, giữ vị trí đặc biệt từ xa xưa và cho đến tận bây giờ. Bên bát nước chè xanh, người dân quây quần nói chuyện xóm giềng, chuyện mùa màng, cấy hái... tình làng nghĩa xóm nhờ thế đó thắt chặt bền lâu.</p> <p style="text-align:justify">Chẳng biết tự bao giờ, thói quen uống trà trở thành một thói quen, tập tục của người Việt, từ hình thức uống đơn giản và thông dụng cho đến thực hiện nghi thức cúng tế đều có sự góp mặt của trà. Trà gắn liền với đời sống con người Á Đông, nhất là người Việt Nam.</p> <p style="text-align:justify">Đặc biệt, những ngày xuân mà thiếu chén trà thơm là xem như thiếu hương vị đậm đà của Xuân, của Tết. Người xưa coi trà như lẽ sống, người đời nay lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền (hợp tính cách, sở thích); một không gian yên tĩnh, nâng chén trà thơm ngon, cho nhau một chút tình đời ý đạo, còn gì thú vị hơn!</p> <p style="text-align:justify">Uống trà làm cho con người thấy thư giãn sau những giờ lao động mệt nhọc, căng thẳng; sẽ thấy tâm hồn thoải mái, ung dung, tự tại.... Chẳng có ai khi tâm trạng bồn chồn, đầu óc rối bời hay đang vội điều gì đó…mà ngồi nhâm nhi chén trà ?!.</p> <p style="text-align:justify">Uống trà là thú vui, thói quen phổ biến từ già đến trẻ, từ người giàu cho đến kẻ nghèo; từ thành thị cho đến nông thôn; từ trí thức cho đến nông dân…Dù cuộc sống phát triển đến đâu, thói quen uống trà của người Việt vẫn không đổi. Có thay đổi là ở kỹ thuật pha trà cầu kỳ hơn, “khó tính” hơn trong cung cách thưởng thức trà mà thôi…</p> <p style="text-align:justify">Có ý kiến cho rằng, ở Việt Nam chỉ có tập quán uống, mời trà như một nghi thức giao tiếp mà chưa có trà đạo như một tôn giáo theo trà đạo Nhật Bản. Trà đạo Nhật Bản có hẳn giáo chủ, giáo lý và thánh đường. Trung Quốc có Trà kinh của Lục Vũ (đời nhà Đường) như một bách khoa toàn thư về trà…</p> <p style="text-align:justify">Ngày nay, việc uống trà của một số người cầu kỳ và phức tạp, có cả nghi thức uống trà, có hẳn lý thuyết về trà qua tác phẩm Trà kinh, một nghi thức uống trà gọi là trà đạo. Có kinh, có đạo đó là tính chất tôn giáo của trà. Song, với người Việt, chén trà dâng cúng tổ tiên; chén trà để người ta xích gần lại gần nhau; hiểu nhau hơn, sẻ chia mọi điều buồn, vui trong cuộc sống…Những cảnh ồn ào, gây gỗ, thậm chí văng tục có thể xảy ra ở các quán nhậu, chứ ít thấy ở quán trà?! Uống trà làm người ta tịnh tâm, nghĩ đến những điều thiện, việc thiện…ấy là đạo trong trà Việt !</p> <p style="text-align:justify"><strong><em>Lâm Đồng “vựa” trà lớn nhất nước</em></strong></p> <p style="text-align:justify">Ở nước ta, có nhiều tỉnh, thành trồng chè nổi tiếng như: Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu… với cây trà shan tuyết rất quý; Thái Nguyên với trà Tân Cương; Hà Nội với trà Sen phủ Tây Hồ… Đặc biệt, Lâm Đồng là vùng trồng chè lớn nhất nước.</p> <p style="text-align:justify">Theo thống kê đến cuối năm 2021, toàn tỉnh Lâm Đồng có 11.287,4 ha chè các loại; trong đó, diện tích kinh doanh là 11.176,6 ha; sản lượng đạt 160.729,5 tấn. Cây chè ở Lâm Đồng chiếm 25% về diện tích và 27% về sản lượng chè của cả nước; tập trung chủ yếu ở các địa phương như: Bảo Lộc, với 2.650 ha các loại chè cao cấp, gồm các giống: Trà Trung du và Shan, LĐ 97, TB 11, TB 14, Tứ Quý, Ngọc Thúy, Kim Tuyên…; huyện Bảo Lâm có diện tích chè lớn nhất tỉnh, với 7.150 ha chè (trong đó, diện tích kinh doanh hơn 7.000 ha; sản lượng đạt 103.050 tấn); Di Linh có 505,6 ha chè; các xã trên địa bàn Thành phố Đà Lạt có 237,2 ha chè Olong các loại…</p> <p style="text-align:justify">Trên địa bàn Lâm Đồng hiện có trên 250 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, chế biến trà; tập trung đông nhất là Thành phố Bảo Lộc với 195 doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh trà; sản lượng hàng năm khoảng 23-25 ngàn tấn (trà đen xuất khẩu 1.460 tấn, trà Olong xuất khẩu khoảng 345 tấn, trà ướp hương trên 3.000 tấn…). Thành phố Đà Lạt có 26 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và kinh doanh trà các loại (trà xanh, trà đen, trà Olong, trà atiso…); huyện Bảo Lâm có 21 doanh nghiệp, cơ sở. Các huyện: Lâm Hà: 4 doanh nghiệp, cơ sở; Di Linh: 5 doanh nghiệp, cơ sở; Đức Trọng: 3 doanh nghiệp, Đạ Huoai: 1 doanh nghiệp.</p> <p style="text-align:justify"> Trong 34 tỉnh, thành cả nước hiện có sản xuất và kinh doanh trà thì Lâm Đồng có lịch sử trồng và có ngành công nghiệp trà sớm nhất, với sự ra đời Nhà máy chè Cầu Đất (xã Trạm Hành) từ năm 1927, do người Pháp xây dựng, hiện đang hoạt động và đã được chứng nhận Kỷ lục “Nhà máy chè cổ xưa nhất Việt Nam còn hoạt động”.</p> <p style="text-align:justify">Các xã Xuân Trường, Trạm Hành đã thu hút nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư, khai thác vùng nguyên liệu chè nổi tiếng như: Công ty Cổ phần Chè Cầu Đất, Công ty TNHH Hà Linh, Công ty TNHH FuSheng, Công ty TNHH HaiYih…</p> <p style="text-align:justify">Thành phố Bảo Lộc, huyện Bảo Lâm trước nay đã định danh là “vựa” trà nổi tiếng với hàng chục “thương hiệu”, “danh trà” vang lừng tiếng tăm, mê hoặc khách mộ điệu với thức uống thanh tao, mạch nguồn văn hóa Việt! Những: Đỗ Phủ, Thiên Thành, Kim Thành, Thiên Hương, Tâm Châu, Bảo Tín, Quốc Thái, Rồng Vàng, Trâm Anh… đã góp phần làm nên thương hiệu “Trà B’Lao” nổi tiếng!...</p> <p style="text-align:justify">Có thể thấy, trồng, chế biến, kinh doanh và uống trà của người Việt có lịch sử rất lâu đời. Cây chè gắn bó thủy chung với người Việt từ thuở hồng hoang cho đến thời hiện đại. Mời trà, uống trà trở thành nghi thức giao tiếp, trong nghi lễ cúng tổ tiên, nhất là trong những ngày đón Tết cổ truyền dân tộc. Uống trà là thú vui tao nhã, là mạch nguồn văn hóa Việt trong dòng chảy bất tận của cuộc sống.</p> <p style="text-align:justify">Mặc ai đó cho rằng, người Việt chỉ biết uống trà, chưa có trà đạo (Nhật Bản); chưa có “lý thuyết Trà kinh” (Trung Quốc)…, người Việt bên chén trà, sẻ chia và cùng hướng về những điều tốt; khuyên nhủ nhau làm việc lành; chí ít thấy lòng thư thái, tự tại trước những sân si, đố kỵ, hẹp hòi…Vậy đã là phúc đức rồi!</p> <p style="text-align:justify">Nhàn đàm bên chén trà đầu xuân, tiện lời “điểm” vài nét về lịch sử cây chè và thói quen uống trà của người Việt xưa - nay, biết đâu có điều suy gẫm…</p> <p style="text-align:justify"> <em><strong>Thanh Dươnh Hồng</strong></em></p>
>