Đông Bắc Á là khu vực có sức mua lớn, nhiều tiềm năng cho nhóm hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu.
Khu vực thị trường Đông Bắc Á có dân số khoảng hơn 1,6 tỷ người (riêng Trung Quốc là 1,4 tỷ người). Đây là khu vực có sức mua lớn, nhiều tiềm năng cho nhóm hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu.
Hiện các nước trong khu vực Đông Bắc Á đều đã ký kết và tham gia các hiệp định thương mại tự do cả song phương và đa phương với Việt Nam như: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Hàn Quốc (VKFTA); Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA); Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực RCEP (với cả Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản)…
Thị trường giàu tiềm năng
Ông Nguyễn Duy Kiên-Vụ Thị trường châu Á-châu Phi (Bộ Công Thương) cho biết: 9 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang khu vực thị trường Đông Bắc Á đạt 10 tỷ USD, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó, có các mặt hàng tiêu biểu là gạo 545 triệu USD, tăng 52,9%; hàng rau quả đạt 3,2 tỷ USD, tăng 115% so với cùng kỳ năm 2022.
Hiện Đông Bắc Á là thị trường xuất khẩu quan trọng đối với nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam. Đây là thị trường xuất khẩu lớn nhất của mặt hàng rau quả với tỷ trọng 75% tổng xuất khẩu. Ngoài ra, đây cũng là thị trường xuất khẩu lớn nhất của sản phẩm cao-su và sắn với tỷ trọng lần lượt là 83% và 95,8% tổng xuất khẩu.
“Hiện nay, dư địa xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang khu vực thị trường này còn rất lớn. Thống kê cho thấy, tổng nhập khẩu các mặt hàng này của Trung Quốc là khoảng 151 tỷ USD/năm; Hàn Quốc 40 tỷ USD/năm; Nhật Bản 33 tỷ USD/năm; trong khi xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường này mới chỉ chiếm lần lượt là 7 tỷ USD, 1,3 tỷ USD và 1,2 tỷ USD”, ông Nguyễn Duy Kiên nhấn mạnh.
Riêng về thị trường Nhật Bản, theo Giám đốc Công ty CP OTAS Global Nguyễn Văn Minh, trong giai đoạn 2019-2022, tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu rau quả của thị trường Nhật Bản đạt trung bình 2,5%/năm, tăng lên 6% trong năm 2023.
Năm 2022, nhập khẩu rau quả của Nhật Bản đạt 165 triệu USD. Nhu cầu của thị trường Nhật Bản cho các loại quả tươi ngày càng lớn, nhưng sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ.
Đây là cơ hội xuất khẩu cho các loại trái cây nhiệt đới của Việt Nam, nhất là các loại quả như chuối, xoài, thanh long, vải, nhãn đã được phép xuất khẩu chính ngạch sang Nhật Bản.
Hiện Nhật Bản chủ yếu nhập rau quả, hàng đông lạnh từ Trung Quốc, Mỹ, Philippines, Mexico, New Zealand.
Trung Quốc là thị trường lớn nhất, chiếm gần một phần ba tổng kim ngạch nhập khẩu rau quả của Nhật Bản vào năm 2020.
Hoa Kỳ là nước thứ 2, chiếm khoảng 17,7% và Việt Nam đứng thứ 10 với tổng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 128,4 triệu USD vào năm 2020 và chỉ chiếm khoảng 1,7% tổng kim ngạch nhập khẩu rau quả của Nhật Bản.
Theo Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA) có hiệu lực từ ngày 1/10/2009, Nhật Bản đã cam kết giảm thuế suất đối với các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam; Việt Nam còn được hưởng thuế suất ưu đãi theo Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP)…
Do đó, nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh rất lớn khi xuất khẩu vào Nhật Bản.
Đáp ứng yêu cầu về chất lượng
Thách thức với các mặt hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang khu vực thị trường Đông Bắc Á hiện nay là khi hàng rào thuế quan được dỡ bỏ dần thì các quốc gia lại gia tăng hàng rào phi thuế quan như: Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT); Các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS); Hạn ngạch nhập khẩu (quota) đối với một số mặt hàng nhạy cảm; Các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá…
Ngoài ra, nhiều quốc gia áp dụng quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói nhằm truy xuất và xác thực nguồn gốc xuất xứ nhằm ngăn ngừa giả mạo xuất xứ hàng hóa sản phẩm, bảo vệ người tiêu dùng.
Để thực hiện yêu cầu này, doanh nghiệp phải chuẩn hóa dữ liệu từ khâu sản xuất, sơ chế, chế biến đến quá trình bảo quản, thông quan...
Tại thị trường Trung Quốc, theo Thương vụ Việt Nam tại Trung Quốc, Việt Nam hiện xếp thứ 10 trong số các quốc gia xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc. Riêng nhóm hàng rau quả thì Việt Nam nằm trong nhóm ba nước có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất sang thị trường Trung Quốc, sau Thái Lan và Chile.
Tuy nhiên hiện nay, hệ thống tiêu chuẩn, quy định của Trung Quốc đòi hỏi rất cao về chất lượng sản phẩm thông qua các văn bản như:
- Lệnh 248 về Quy định quản lý đăng ký doanh nghiệp sản xuất thực phẩm nước ngoài nhập khẩu;
- Lệnh 249 về Biện pháp quản lý an toàn thực phẩm xuất nhập khẩu;
- Các quy định về bao bì, tem nhãn, truy xuất nguồn gốc;
- Thỏa thuận, Nghị định thư giữa Trung Quốc với các quốc gia xuất khẩu;
- Các tiêu chuẩn liên quan khác của nước nhập khẩu (quy tắc tem nhãn đối với thực phẩm đóng gói sẵn...).
Do đó, đại diện Thương vụ Việt Nam tại Trung Quốc cho rằng: Việt Nam cần phát huy lợi thế về vị trí địa lý; giá thành sản xuất, vận tải; các sản phẩm nhiệt đới... để khai thác và đáp ứng tối đa tiềm năng, nhu cầu to lớn của thị trường Trung Quốc; tổ chức sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, tiêu chuẩn nước nhập khẩu và tăng cường quản lý, giám sát chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm; tuân thủ các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, kiểm nghiệm kiểm dịch, bao bì đóng gói, truy xuất nguồn gốc của nước nhập khẩu; chú trọng xây dựng thương hiệu nông sản.
Bên cạnh đó, cần có nhân lực hiểu biết chuyên môn, thông thạo ngôn ngữ, am hiểu thị trường Trung Quốc để sẵn sàng cạnh tranh với hàng hóa nông sản, thực phẩm của các quốc gia cùng tham gia xuất khẩu vào thị trường này.
Đối với thị trường Hàn Quốc, theo ông Phạm Khắc Tuyên - Trưởng cơ quan Thương vụ, Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc, thì xu hướng của thị trường này đang ngày càng ưa chuộng các sản phẩm nông, lâm, thủy sản tốt cho sức khỏe, tăng sức đề kháng, các sản phẩm thay thế thịt, sản phẩm bảo vệ môi trường…
Theo đó, gia tăng nhiều quy định và quy trình kiểm dịch nông sản nhập khẩu theo các luật như: Luật An toàn thực phẩm; Luật Kiểm dịch thực vật; Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm động vật; Luật Ngoại thương…
Vì vậy, doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường này cần cập nhật và tuân thủ các quy định để hạn chế các vi phạm về an toàn vệ sinh thực phẩm.