Đêm xuống dần, những ánh đèn đường ấm lên luồng ánh sáng của một vùng quê trù phú, ấm no. Tôi bước xuống xe và cảm nhận sức sống, âm sắc Nam Ban - một trong ba thị trấn của huyện Lâm Hà. Đây là mảnh đất đậm ghi dấu ấn thưở khai mở Vùng kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng. Tôi nhâm nhi li cà phê đậm hương vị bazan trong một góc quán bên đường Điện Biên đang du dương một bài hát nói nỗi lòng người đi xa nhớ Hà Nội. Lắng hồn mình theo giai điệu da diết của bản nhạc hòa trong âm thanh hùng vĩ của thác Voi, tôi lần theo dòng hồi tưởng từ gần nửa thế kỷ trước của những người con Thủ đô đi mở đất…
Một thời mở đất…
Hơn bốn mươi năm đã trôi qua nhưng dòng hồi ức của những người đầu tiên đi mở đất vẫn còn tươi rói. Ngày ấy, 10-10-1975, khi đồng bào Hà Nội cùng cả nước đang tưng bừng tổ chức lễ kỷ niệm Ngày giải phóng Thủ đô trong niềm vui giang sơn thu về một mối, thì đoàn cán bộ đầu tiên của Hà Nội đã khăn gói lên đường vào Lâm Đồng. Ông Trần Duy Dương - Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội và Trần Xuân Bảy - Thành ủy viên, là những người dẫn đầu. Trong những ngày khởi thủy ấy, với sự trợ giúp của tỉnh Lâm Đồng, họ đã khảo sát vùng đất mới, quy hoạch, hình thành những bước đi đầu tiên cho việc khai hoang mở đất, lập nên vùng kinh tế mới, quê hương mới của người Hà Nội trên vùng đất đỏ cao nguyên Lâm Viên.
“Thứ nhất là chống hà bá, thứ nhì khai phá sơn lâm” - câu thành ngữ xưa quả thật vô cùng thấm thía đối với những người con Thủ đô ngày đầu đi mở đất. Khi đoàn khảo sát đặt chân lên vùng đất nam Tây Nguyên xa xôi, nơi ấy vẫn còn hoang vu với dòng Đạ Dâng ngàn đời trôi giữa chốn thâm sơn cùng cốc, nhiều cánh rừng nguyên sinh Bãi Cháy - Lán Tranh chưa một lần in dấu chân người. Núi đồi xác xơ bởi thương tích của hai cuộc chiến tàn khốc. Lau lách ngập đầu. Đi đến đâu cũng gặp vắt xanh, ruồi vàng, muỗi vằn và rắn độc. Dấu chân thú dữ và dấu giày của bọn Fulro vẫn thường hằn trên những lối đi về. Xưa cha ông ta trên bước hành phương Nam đã “mang gươm đi mở cõi”, nay người Hà Nội đi dựng xây quê mới, ngoài dụng cụ, hành trang còn phải mang theo súng đạn để chống lại kẻ thù. Họ đã đối mặt với một cuộc chiến thực sự để chống lại thiên nhiên khắc nghiệt, chống lại bọn chống phá cách mạng và mọi khó khăn để lập nền móng cho một vùng quê mới của người Hà Thành trên cao nguyên xa xôi.
Sau những bước chân đầu tiên của đoàn khảo sát, ngày mồng 6 Tết năm Bính Thìn - 1976, 100 thanh niên xung kích là những trai thanh, gái lịch của đất Rồng Thiêng đã khăn gói lên đường. Tiếp đó, 8 tổng đội thanh niên xung kích với hơn 2.000 người từ tất cả các quận, huyện Thủ đô cũng đã đồng loạt ra quân vào vùng đất Tây Nguyên. Họ mở đường, khai hoang, lập lán trại và gieo những hạt giống đầu tiên lên mảnh đất hoang cằn. Không thể kể hết những tháng ngày gian khó ấy với sốt rét rừng, đói cơm, nhạt muối và bao nhiêu hiểm nguy rình rập. Có người đã vĩnh viễn nằm xuống lòng đất bazan. Sự cống hiến, hy sinh của họ đã được trả lại bằng hàng chục điểm dân cư mới trên một vùng đất trải dài hơn năm vạn héc ta. Từ Nam Ban đồi núi hoang vu đến Bãi Cháy - Lán Tranh rừng rậm nguyên sinh đã được khai hoang và chia thành những lô, những khu dân cư mới với những cái tên thân thuộc từ Hà Nội “ghánh” vào: Ba Đình, Đống Đa, Hoàn Kiếm, Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm, Đông Anh…
Trường học, trạm xá, chợ búa, cơ sở hành chính, đường sá và nhà văn hóa đã mọc lên trên vùng đất ấy trước khi những người dân đầu tiên của Thủ đô từ giã quê hương vào đây lập nghiệp. Nhịp sống sôi động mang khí thế Thăng Long - Hà Nội đã đưa đến cho vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ một sinh khí mới. Nền văn minh sông Hồng ngàn năm theo ghánh gồng của những người đi khai hoang, lập nghiệp đã hòa quyện trong dòng chảy văn hóa bản địa Tây Nguyên.
Đất nước vừa trải qua chiến tranh với muôn nỗi gian nan. Những người dân Thủ đô đi dựng xây quê mới cũng trong hoàn cảnh còn nhiều thiếu thốn. Đất lạ xứ xa, nỗi nhớ quê hương da diết. Vốn liếng chẳng có bao lăm lại gặp những lúc đói kém mất mùa. Thế nhưng, có hơn 95% những người dân vào vùng kinh tế mới Lâm Đồng đã trụ lại và sinh cơ lập nghiệp cho đến hôm nay. Nhiều gia đình đã tồn tại ba, bốn đời trên vùng đất mới. Kết quả đó là một minh chứng về bản lĩnh và ý chí quyết tâm của người Hà Nội, là sự khẳng định những quyết sách đúng đắn của lãnh đạo Trung ương và Thủ đô trong chuyến đưa dân về phía phương Nam. Dân vững tin ở lại và yên tâm dựng xây quê mới, tiềm năng rộng mở của vùng đất bazan được đánh thức. Nhưng cũng phải mất nhiều năm với bao trăn trở, thao thức, người Hà Nội trên mảnh đất Tây Nguyên mới chọn cho mình được hướng đi đúng, cách làm ăn chắc. Phải mất nhiều năm vật lộn từ trồng ngô, gieo lúa đồi rồi tập tễnh trồng cây công nghiệp…Thành công và thất bại đều đã nếm trải, có lúc khó khăn tưởng chừng không trụ nổi. Cuối cùng một cơ cấu kinh tế đã được hình thành: cây công nghiệp dài ngày cùng với chăn nuôi đại gia súc và khai thác vùng sình lầy cấy lúa nước, và gần đây là phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản và dịch vụ. Từ định hướng đó, những nương dâu, đồi chè, vườn cà phê đã từng ngày phủ xuống mảnh đất này một màu xanh trù phú, ấm no…
Huyện mới trên cao nguyên
Đến hôm nay, những người trẻ tuổi cất tiếng khóc chào đời trên quê mới nghe lại chuyện ngày xưa cha anh đi mở đất như nghe chuyện cổ tích. “Cổ tích” đó chỉ mới xảy ra gần năm mươi năm trước. Chừng đó thời gian với một đời người cũng chỉ là chớp mắt nhưng với một vùng quê mới đã có những đổi thay lớn lao như có bàn tay trợ giúp của thần tiên. Trên vùng rừng rậm hoang vu, bạt ngàn cỏ tranh năm xưa, nay là huyện mới Lâm Hà. Một cái tên gợi nhớ da diết về cố hương phương Bắc và thắm tình gắn bó với quê mới phương Nam. Họ “ghánh cả tên xã, tên làng theo mỗi cuộc di dân” (thơ Nguyễn Khoa Điềm). Họ cũng “gánh” vào đây tất cả những lo toan, trăn trở, những nét văn hóa truyền thống lâu đời, những kinh nghiệm làm ăn và ý chí lập nghiệp, lập thân. Và họ đã thành công…
Tháng 10 - 1987, Vùng kinh tế mới Hà Nội chính thức hoàn thành nhiệm vụ của mình. Hà Nội chính thức giao lại “một phần máu thịt của Thủ đô” cho tỉnh Lâm Đồng quản lý, và huyện Lâm Hà ra đời bằng cuộc tao ngộ đầy ý nghĩa ấy. Đất đã thực sự lành, chim đã tìm được chốn đậu bình yên. Giao lại “vùng kinh tế mới” nhưng Hà Nội vẫn giữ trọn nghĩa tình với “một phần máu thịt”. Trên vùng đất này, suốt bao nhiêu năm qua, thời điểm nào cũng có dấu ấn Thủ Đô đậm in. Đó là những chuyến thăm hỏi, động viên; đó là sự giúp đỡ về tinh thần, vật chất, chia sẻ với bà con đi xa bằng việc đầu tư rất nhiều công trình như nhà văn hóa, trường học, bệnh xá, đường giao thông. Chỉ tính riêng giai đoạn từ 2004 đến 2015, Thành phố và các quận, huyện Hà Nội đã hỗ trợ huyện Lâm Hà số tiền xấp xỉ 300 tỷ đồng để xây dựng các công trình hạ tầng…
Từ thưở xa xưa, lịch sử của dân tộc Việt Nam gắn với những cuộc đấu tranh sắp đặt giang sơn, mở mang bờ cõi. Người Hà Nội từ giã Thủ đô ngàn năm văn hiến ra đi lập nghiệp trên quê hương mới cũng là sự tiếp nối truyền thống tổ tiên. Trong cuộc hành phương Nam vô cùng gian nan nhưng cũng đầy ý nghĩa của hơn ba mươi năm trước, những người đầu tiên khai đất, dựng nhà, xây đập, làm đường, tỉa ngô, trồng lúa nay kẻ còn người mất. Thế hệ sau tiếp bước thế hệ cha anh, người yêu đất và đất chẳng phụ công người. Màu xanh của ấm no đang trỗi dậy trên vùng quê mới, từ Nam Ban, Đinh Văn, Tân Hà đến Phú Sơn, Đạ Đờn…Người Hà Nội, Nghệ An, Ninh Bình…cùng với đồng bào các dân tộc anh em trên vùng đất bazan màu mỡ này đang cùng kề vai sát cánh xây dựng quê chung. Mùa Thu lịch sử này, họ cùng nhau hướng về Thủ đô và ngâm chung câu thơ của thi sĩ - chiến sĩ Huỳnh Văn Nghệ: “Từ thưở mang gươm đi mở cõi - Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”. Câu thơ ấy tôi đã được nghe lần nữa đêm nay bên chân thác Voi hùng vĩ giữa lòng thị trấn Nam Ban, “thủ phủ” ngày xưa của vùng kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng…
UÔNG THÁI BIỂU